Ngôi sao sụp đổ
Công ty khởi nghiệp Terralliance Technologies ở Newport Beach, California (Mỹ) đã phát triển thuật toán để giúp các kỹ sư dầu khí tìm được nơi có dầu.Dù chuyên ngành của Olson về điện và không có nền tảng về dầu khí, nhưng ông đã thuyết phục được một số nhà đầu tư máu mặt nhất thế giới, bao gồm Goldman Sachs và Kleiner Perkins, rằng cách làm của mình là độc đáo và hợp pháp.
Terralliance đã không tìm thấy nhiều dầu cho lắm. Nhưng nhà sáng lập (kiêm CEO) Olson đã rất giỏi trong việc định vị dự trữ tiền mặt, đến mức ông tin rằng mình sắp chốt được thỏa thuận đóng dấu tương lai của công ty ông và cả vận may của chính mình.
Ông đến New York tháng 8/2009 để đàm phán tài chính với Quỹ Tài chính Temasek của Singapore. Giá dầu khi ấy đã tăng vọt và Temasek lên kế hoạch đầu tư 1,1 tỷ USD dựa trên định giá Terralliance ở mức hơn 4 tỷ USD.
Với con số khổng lồ như vậy, Olson đảm bảo với các nhà đầu tư giá trị công ty sẽ nhanh chóng lên 60 tỷ USD. Điều này biến Olson thành “anh ba phẩy” (chỉ ba dấu phẩy - tương đương với dấu chấm trong tiếng Việt -phân chia hàng trong các con số) hay “anh chàng hàng tỷ”, như ông sau này nhớ về mình lúc đó.
Olson không phải là người duy nhất “đếm phẩy”. Kleiner Perkins tin rằng: Công ty đang ở ngưỡng cửa chiến thắng lớn đầu tiên kể từ IPO của Google năm 2004. Goldman Sachs đã hình dung ra vụ “càn quét” khác. Quỹ Passport Capital ở San Francisco dự đoán sẽ đốt danh tiếng cho các khoản đầu tư năng lượng. Ông trùm John Fredriksen người Na Uy đã cho Terralliance vay 50 triệu USD với niềm tin sẽ “làm được cú để đời”.
Tại sao các nhà đầu tư lão làng lại bơm rất nhiều vốn vào một startup rủi ro như vậy chỉ là bí ẩn trong câu chuyện về Terralliance -câu chuyện chưa được kể một cách toàn diện mặc dù hồ sơ của những người có liên quan thì đầy rẫy?
Những người liên quan không muốn bình luận nhiều. Nhưng điều chắc chắn là Terralliance đã có kết thúc tồi tệ. Tiền của nhà đầu tư cũng vậy.
Trong lúc tìm cách lấy được tiền của Temasek, Kleiner và Goldman nghĩ rằng: Điều quan trọng là phải chia sẻ mối quan ngại của họ về Olson. CEO của Terralliance có thể là tân sinh viên ngành dầu khí. Nhưng ông đã chi tiêu như một hoàng tử Ả Rập. Danh sách mua sắm trải dài từ các giếng dầu ở Thổ Nhĩ Kỳ và Mozambique đến các máy bay chiến đấu phi quân sự của Liên Xô.
Một kiểm toán viên đã treo cờ đỏ báo động về các giao dịch của Olson tại Congo và báo cáo với Bộ Tư pháp Hoa Kỳ về khả năng phạm luật chống hối lộ. Hai thành viên ban lãnh đạo, Joe Lacob của Kleiner Perkins và Joe DiSabato của Goldman, đã thông báo cho nhà đàm phán chính của Temasek, Nagi Hamiyeh, rằng họ có ý định hạ bệ người sáng lập có thói quen vung tay quá trán này.
Nhưng chẳng ai muốn dính đến “công tử Bạc Liêu” cả. Thế là, thay vì ký tên, Hamiyeh trở về Singapore. Đầu năm 2009, hội đồng quản trị đã sa thải hoàn toàn Olson. Đến lúc giá dầu giảm, cổ phiếu của Temasek sụp đổ và Terralliance cũng trở thành đống hỗn độn ngập trong các vụ kiện tụng, sa thải và khiển trách.
“Nhà giàu mới nổi” và “con dao hai lưỡi”
Thực tế, Olson không thực sự tìm kiếm dầu. Khi bong bóng dotcom lên đến đỉnh điểm năm 2000, ông đang đứng ở ngã ba đường. Ở tuổi 37, ông đã dành 14 năm trong NASA, bộ phận điều hành các tàu thăm dò không gian không người lái (JPL).
Sau khi ra đi, Olson đồng sáng lập công ty bán dẫn năm 1998 có tên Pivotal Technologies và trở thành Giám đốc công nghệ. Pivotal sản xuất chip cho modem cáp và thiết bị Bluetooth. Xuất hiện vào thời điểm thị trường đang bùng nổ nhu cầu, công ty gặt hái thành công rực rỡ và bán lại cho Broadcom với giá 605 triệu USD chỉ sau hai năm hoạt động.
Làm công chức quá lâu để rồi phất lên một cách bất ngờ như cách ông mô tả là “chuyển mình từ mức thu nhập 65 nghìn USD/năm lên hàng triệu USD”, không lạ khi ông mắc bệnh “nhà giàu mới nổi”.
Olson là trường hợp “mua một tặng một” hiếm hoi trong thế giới công nghệ: một nhà công nghệ giàu tính kể chuyện. Người ta ví von cái tên của ông chẳng khác gì thương hiệu nhượng quyền thương mại. Tuy nhiên, tại Pivotal, ông bị kiểm soát chặt chẽ. Một người đã làm việc với ông ở Pivotal mô tả: “Erlend giống như lò phản ứng hạt nhân. Nếu sử dụng anh ta đúng cách, thì anh ta có thể đun sôi nước. Nếu ngược lại, thì anh ta có thể nung chảy cả thành phố”.
Thật ra, tìm nước, chứ không phải đun sôi nó, mới là mục tiêu của Olson. Như ông kể, cha mẹ ông, cựu nhân viên của Phòng thí nghiệm quốc gia tuyệt mật Sandia ở New Mexico, từng phàn nàn với con về khó khăn của việc khoan giếng.
Các dự án của NASA tìm kiếm dấu hiệu sự sống trên và bên dưới các bề mặt hành tinh, bao gồm cả sự hiện diện của nước. Cùng với một số bạn bè cũ ở NASA, Olson bắt đầu mày mò dữ liệu vệ tinh công khai về địa hình gần nhà ở Nam California. Olson cũng đã quen thuộc với công nghệ viễn thám do NASA triển khai. Ông đã thiết kế chip năng lượng thấp rất quan trọng để chạy hệ thống thông tin liên lạc hàng triệu dặm từ Trái đất.
Sự nghịch ngợm của Olson và những người bạn JPL đã mang lại khoảnh khắc “eureka” không ngờ. Olson kể lại: “Chúng tôi cứ mò phải mỏ dầu trong khi đang tìm kiếm. Tôi không biết gì về kinh doanh dầu mỏ hoặc kinh doanh nhiên liệu hóa thạch”.
Nhóm nghiên cứu đã dành vài năm để mô hình hóa các mỏ dầu đã biết và phát triển thuật toán để kiểm tra khả năng dự đoán của mô hình. Nhưng Olson không thỏa mãn:“Chúng tôi nghĩ rằng nếu có thể tạo ra bản đồ kho báu về nơi có dầu, tại sao không tự mình đi đào kho báu?”
Cách tiếp cận của ông để tìm hydrocarbon vượt xa hai công cụ truyền thống được ngành công nghiệp ưa chuộng nhất. Đó là kiểm tra các chỉ số trong lòng đất. Khi kết hợp với các tệp máy tính lớn sẽ cho ra xác suất về cơ hội tìm thấy dầu.
Olson đã sử dụng những phát hiện của mình để chào mời các nhà đầu tư. Sau khi quyến rũ được Lacob của Kleiner và DiSabato của Goldman, thông qua họ, ông được giới thiệu với giám đốc dầu mỏ đáng kính Joe Foster, nhà sáng lập và là cựu CEO của Newfield Exploration. Sự phấn khích với việc tìm dầu không phải là mới. Foster, người đã mất hàng trăm ngàn đô là cho startup này, trầm ngâm: “Câu chuyện thực sự cũng xưa như trái đất vậy: một con người lôi cuốn với một câu chuyện hấp dẫn đến mức bạn muốn tin vào nó”.
Thành công ban đầu khá khả quan, nhưng rồi càng đi lại càng chẳng được bao nhiêu. Giếng dầu ở Thổ Nhĩ Kỳ có “vàng đen” thật. Nhưng khả năng thương mại đã suy giảm theo giá dầu. Giếng dầu đắt tiền ở Mozambique được đào tung lên, nhưng khô khốc. Nhiều dự án khác không bao giờ được khởi công.Olson quyết định Terralliance cần tạo ra bản đồ của riêng mình thay vì dựa vào dữ liệu vệ tinh đã mua. Vì vậy, công ty quyết định mua máy bay. Mỗi chiếc được trang bị các cảm biến riêng.
Nhưng Olson không khoái những cỗ máy thương mại “thấp và chậm”. Ông đã quen với sự “cao và nhanh” của các máy bay do thám U-2 mà NASA sử dụng trong nghiên cứu. Nhưng U-2 không được bán thương mại, nên Olson mua hai máy bay chiến đấu Sukhoi SU-27 “Flanker”, ngôi sao của không quân Liên Xô thời Chiến tranh Lạnh, từ Chính phủ Ukraine với giá 22 triệu USD và thêm 26 triệu USD cho hai chiếc khác.
Đến năm 2007, Terralliance đã cạn kiệt tiền mặt, mặc dù đã huy động được gần 300 triệu USD trong chưa đầy ba năm. Stephen Buscher, chủ ngân hàng đầu tư ngành dầu khí, trở thành giám đốc tài chính của Terralliance vào năm 2007, ngạc nhiên trước khả năng thuyết phục của Olson. Nhà sáng lập này tự tin tuyên bố Terralliance là “cuộc cách mạng trong thăm dò dầu khí” và có nhiều giếng dầu hơn cả đại gia Exxon Mobil!
Không bao giờ thiếu nhà đầu tư tiềm năng sẵn sàng lắng nghe câu chuyện của Olson. Đầu năm 2008, Temasek nổi lên là người nhiệt tình nhất.
Trong lúc Temasek phái các chuyên gia tư vấn đi nghiên cứu, thông qua Goldman, công ty đã tiếp xúc với John Burbank, người sáng lập Passport Capital. Passport đồng ý cho Terralliance vay 150 triệu USD. Để chia sẻ rủi ro, Passport đã cung cấp một phần ba khoản cho vay cho một công ty đầu tư ở London có tên Franklin Enterprises. Trong hồ sơ mà Franklin kiện cáo Passport sau này có viết họ đã được nghe những lời hứa hẹn có cánh như “Google của ngành dầu khí”.
Đốt tiền
Kiểm toánviên Howard Selzerđã phát hiện ra Olson nợ công ty 4,4 triệu USD và sử dụng tài sản công ty cho mục đích riêng khi bắt tay kiểm toán vào năm 2007.Các kiểm toán viên cũng cáo buộc ông đã thực hiện các khoản thanh toán đáng ngờ cho các quan chức chính phủ ở Congo, nơi Terralliance đã ký hợp đồng khoan dầu và chuyển vấn đề này cho Bộ Tư pháp Hoa Kỳ.
Đến lúc đó, các thành viên hội đồng đã không chịu được nữa. Nhưng lại vướng phải vấn đề: Olson là đầu mối liên lạc chính với Temasek. Ông cũng là người kể câu chuyện của Terralliance tốt hơn bất kỳ ai.Trong nỗ lực để loại bỏ quyền lực, nhưng vẫn muốn giữ chân Olson, hội đồng đã “hạ”ông xuống làm giám đốc khoa họcvào tháng 9/2008.
Với quá nhiều bất ổn, không có gì lạ khi Temasek tạm dừng đầu tư vào tháng 8/2008. Franklin Enterprises yêu cầu Passport trả lại tiền. Passport từ chối và bị kiện vì tội gian lận bản chất quản lý và tài chính của Terralliance.
Mấy năm sau ngày Erlend Olson nói với Kleiner Perkins rằng: Công ty sẽ sớm có giá trị 60 tỷ USD, thế giới đã khác. Các giám đốc của Terralliance cố gắng tán tỉnh lại Temasek vào tháng 11/2008. Tuy nhiên, giá dầu tiếp tục giảm, Temasek chính thức bỏ đi vào tháng 12.
Trong số rất nhiều câu hỏi chưa được trả lời trong câu chuyện kỳ lạ về Terralliance, có hai câu hỏi nổi bật: Có công nghệ nào chưa? Làm thế nào mà các nhà đầu tư dày dạn kinh nghiệm lại đầu tư rất nhiều tiền vào công ty mà họ rất ít kiểm soát nó trong ngành công nghiệp mà họ không mấy quen thuộc?Có thông tin nói rằng: Olson chưa từng được cấp bằng sáng chế công nghệ. Nếu vậy, thì căn cứ đánh giá ở đâu?
Joe Foster - cựu thành viên hội đồng quản trị - nói rằng: Ông không biết liệu công nghệ này có hoạt động thực hay không. “Điều tôi nhìn thấy là công cụ dò tìm tốt. Nó cho bạn biết nơi nào có khả năng hơn hoặc thoát khỏi địa ngục nhanh hơn”.
Với Erlend Olson, ông đã thành lập liên doanh mới và dành nhiều thời gian trong máy bay hơn, đặc biệt là giữa California và châu Phi. Ông vẫn đốt tiền với cường độ tương tự. Nhưng từ hành trình tìm nước, rồi dầu, giờ ông đang tìm kiếm lời khẳng định tài năng của mình.