Cạnh tranh là yếu tố không thể thiếu trong tất cả các nền kinh tế, các ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội và trong ngành ngân hàng không phải là ngoại lệ.
Cạnh tranh là cần thiết cho sự phát triển, cạnh tranh lành mạnh có thể góp phần nâng cao lợi ích xã hội thông qua việc giảm giá và tăng cường chất lượng dịch vụ. Tuy nhiên, ngân hàng là một ngành kinh doanh đặc thù, nơi một cơ chế thị trường tự do hoàn toàn không phải là một lựa chọn tối ưu nhất do ngân hàng là ngành nhạy cảm, sự đổ vỡ của một ngân hàng có thể ảnh hưởng đến nhiều ngân hàng khác, gây ra cuộc khủng hoảng ngân hàng có khả năng lan truyền nhanh chóng trên diện rộng và có thể trở thành khủng hoảng kinh tế.
Do đó, cạnh tranh ngân hàng không thể được thực hiện bằng mọi giá, sử dụng mọi thủ đoạn, bất chấp pháp luật để thôn tính đối thủ cạnh tranh mà luôn phải chịu sự thanh tra, giám sát chặt chẽ và sự can thiệp của Chính phủ khi cần thiết.
Ở Việt Nam, giai đoạn 2006 - 2017 là giai đoạn đất nước tiếp tục quá trình đổi mới với xu hướng chủ đạo là đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, toàn diện và tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh, chú trọng hơn các yếu tố phát triển ổn định, bền vững. Đây cũng là giai đoạn nền kinh tế đất nước đối mặt với những rủi ro, thách thức rất lớn sau mở cửa hội nhập do chịu tác động từ những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế thế giới.
Quá trình phát triển ngành ngân hàng trong thời gian này gắn với hai giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Giai đoạn 2006 - 2011
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cùng với đó là những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của mỗi ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, sức ép cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh đối với các NHTM Việt Nam ngày càng gia tăng. Giai đoạn 2006 - 2010 chứng kiến sự gia tăng khá nhanh số lượng các ngân hàng.
Trong năm 2007, có trên dưới 30 bộ hồ sơ nộp lên Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xin thành lập NHTM. Từ năm 2008 đến 2010 đã có 3 NHTM cổ phần trong nước, 6 chi nhánh NHTM nước ngoài và 5 NHTM 100% vốn nước ngoài được thành lập và hoạt động tại Việt Nam.
Đến cuối năm 2011, cả nước có 5 NHTM có vốn nhà nước chi phối, 1 NH chính sách xã hội, 37 NHTM cổ phần, 5 NHTM liên doanh, 48 chi nhánh NHTM nước ngoài, 48 văn phòng đại diện NHTM nước ngoài. Các ngân hàng cũng đẩy mạnh phát triển mạng lưới, nhất là các NHTM cổ phần.
Hệ thống NHTM cổ phần đã thành lập chi nhánh hoặc phòng giao dịch ở khắp các tỉnh, thành phố và cả các địa bản tỉnh lẻ, nông nghiệp, nông thôn vốn là địa bàn độc quyền của 4 ông lớn NHTM nhà nước kể từ năm 2005 trở về trước (Bảng 1).
Sự xuất hiện nhiều ngân hàng nước ngoài cùng với sự đổi mới, tiến lên của các NHTM cổ phần khiến cho ngành ngân hàng có mức độ cạnh tranh ngày càng cao.
Chỉ số đầu tiên để nhận định về mức độ cạnh tranh gia tăng là sự suy giảm về mức độ tập trung kinh tế. Mức độ tập trung của hệ thống ngân hàng Việt Nam khi đo bằng chỉ số Herfindahl–Hirschman (HHI - Thông qua chỉ số HHI, mức độ cạnh tranh của thị trường sẽ được phân loại như sau: HHI ≤ 0,01: thị trường cạnh tranh hoàn hảo; 0,01 < HHI ≤ 0,1: mức độ cạnh tranh cao; 0, 1 ≤ HHI ≤ 0,18: thị trường cạnh tranh trung bình; 0,18 ≤ HHI: mức độ tập trung thị trường cao và có xu hướng độc quyền) trên ba phương diện là (i) tổng tài sản, (ii) thị phần huy động và (iii) thị phần cho vay trong giai đoạn 2006 - 2010 thể hiện rõ xu hướng giảm (Bảng 2).
Cụ thể, về cho vay, chỉ số HHI trong giai đoạn 2006 - 2010 giảm từ 0,191 (mức độ tập trung thị trường cao và có xu hướng độc quyền, tín dụng chủ yếu do các ngân hàng lớn nhất và quan trọng nhất thị trường chi phối) xuống 0,110 (mức độ cạnh tranh trung bình).
Về chỉ tiêu tổng tài sản và huy động, chỉ số HHI giảm từ mức độ tập trung trung bình, thị trường cạnh tranh trung bình xuống mức độ tập trung thấp, thị trường cạnh tranh cao trong giai đoạn 2006 - 2010 (HHI tổng tài sản giảm từ 0,159 - 0,079, HHI huy động giảm từ 0,164 - 0,098), phản ánh sự cạnh trạnh ngày càng mạnh mẽ từ khối NHTM cổ phần trong giai đoạn này (Hình 1).
Mức độ cạnh tranh ngày càng cao đã buộc các ngân hàng Việt Nam phải nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động. Nhiều NHTM đã đầu tư mạnh vào công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực để tạo lập cơ sở hạ tầng cần thiết cho phát triển sản phẩm, dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, chủ động đối mặt với những thách thức của quá trình hội nhập.
Việc nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin và tìm kiếm nguồn nhân lực chất lượng cao là những tiền đề quan trọng để các NHTM Việt Nam thực hiện quản trị ngân hàng phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Điều này thể hiện rõ qua việc các NHTM áp dụng hệ thống chấm điểm tín dụng, trích lập và xử lý dự phòng rủi ro tín dụng; hệ thống thẩm định, kiểm tra kiểm soát tập trung; quản trị hệ thống tài sản - nợ.
Những thay đổi trên đã giúp các NHTM Việt Nam an toàn hơn trong kinh doanh, tự tin hơn trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt và vẫn duy trì được mức tăng trưởng lợi nhuận tốt trong giai đoạn này với trung bình tăng trưởng của 8 NHTM hàng đầu là 46% trong năm 2008, 59% trong năm 2009 và 31% trong năm 2010, mặc dù thị trường tài chính thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu kể từ năm 2008.
Bên cạnh những tác động tích cực, cạnh tranh quá mức, không lành mạnh trong hoạt động huy động vốn và cấp tín dụng, thậm chí bất chấp pháp luật, phớt lờ các cảnh báo rủi ro... trong giai đoạn này đã đem lại nhiều hệ quả đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Một là, các NHTM chạy đua lãi suất trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt, nhiều ngân hàng đã huy động vốn vượt khung quy định của NHNN.
Hai là, các NHTM cho vay vượt khung lãi suất quy định của NHNN. Hệ quả của cuộc chạy đua lãi suất huy động giữa các ngân hàng trong giai đoạn này là tăng lãi suất cho vay theo nguyên tắc bù đắp chi phí. Với mức cho vay tối đa không quá 150% lãi suất cơ bản, các NHTM được áp dụng lãi suất cho vay tối đa là 21%/năm.
Để có lợi nhuận, một số NHTM thực hiện cạnh tranh không lành mạnh để cho vay vượt trần 21%/năm dưới một số hình thức như: thu phí thu xếp vốn, thu phí thẩm định tài sản, thu phí quản lý tài sản thế chấp, thu phí tư vấn tài chính, gửi lại một phần tiền vay với lãi suất thấp, ủy thác đầu tư, trung gian môi giới khách hàng tiền gửi và tiền vay, thu phí trả nợ trước hạn.
Ba là, cho vay vượt tỷ lệ tối đa của NHNN. Thông tư số 15/2009/TT-NHNN ngày 10/8/2009 quy định tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn, dài hạn của NHTM là 30%. Tuy nhiên, trong cuộc chiến cạnh tranh gay gắt vẫn tồn tại tình trạng một số NHTM cho vay vượt quá tỷ lệ tối đa này bất chấp những rủi ro thanh khoản có thể xảy ra.
Bốn là, các ngân hàng tăng mạnh cho vay đối với lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro là bất động sản. Như vậy, việc tăng nhanh số lượng các NHTM, kể cả NHTM trong nước và nước ngoài, tăng trưởng tín dụng nóng và dễ dãi, cùng với những biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn và cho vay trong giai đoạn này đã gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
Giai đoạn 2012-2017
Giai đoạn 2012-2017, kinh tế thế giới có nhiều biến động không thuận lợi, tăng trưởng phục hồi chậm, thương mại giảm mạnh do hậu quả từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Bước vào năm 2011, Việt Nam đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức.
Kinh tế vĩ mô không ổn định, lạm phát ở mức cao, dự trữ ngoại hối mỏng, áp lực đối với tỷ giá lớn, thanh khoản của một số NHTM yếu, đe dọa nguy cơ mất an toàn hệ thống, TTCK, thị trường bất động sản giảm sút, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
Theo đó, năm 2011, NHNN ban hành Chỉ thị số 01/CT-NHNN yêu cầu các NHTM xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh với mức tăng trưởng tín dụng không vượt quá 20% dư nợ so với năm 2010.
Đặc biệt, NHNN yêu cầu các NHTM giảm tốc độ cũng như tỷ trọng cho vay đối với các lĩnh vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản và chứng khoán.
Cụ thể, tỷ trọng cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất tối đa 16% tổng dư nợ vào cuối năm 2011. Các chính sách thắt chặt đã góp phần ổn định tình hình kinh tế vĩ mô trong năm 2012 với lạm phát giảm rõ rệt và sức ép giảm tỷ giá đã bớt căng thẳng, tuy nhiên các điểm yếu của hệ thống tài chính vẫn tiếp tục tích tụ.
Trong nỗ lực để giải quyết những vấn đề này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã thông qua Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, đặt trọng tâm tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và một trong ba lĩnh vực quan trọng nhất cần tái cơ cấu trong giai đoạn 5 năm 2011-2015 là tái cơ cấu thị trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.
Trong bối cảnh đó, NHNN đã xây dựng và trình Bộ Chính trị, Chính phủ và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” tại Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 1/3/2012 (Đề án 254) cùng Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD và thành lập công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam” tại Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 (Đề án 843).
Sau 4 năm thực hiện quyết liệt, Đề án 254 và Đề án 843 đã cơ bản hoàn thành và đạt được một số mục tiêu đặt ra. Tuy nhiên, thách thức và khó khăn đối với hệ thống ngân hàng vẫn còn nhiều. Hệ thống các TCTD được cơ cấu lại nhưng chưa thực sự đạt được hiệu quả về quy mô cũng như chất lượng hoạt động, sự khách quan, minh bạch trong quản trị điều hành ở một số TCTD vẫn còn hạn chế, hoạt động an toàn của hệ thống vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Ngày 19/7/2017, Thủ tướng đã ban hành Quyết định 1058/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 (Đề án 1058). Mục tiêu của đề án này là tiếp tục cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các TCTD yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống; giảm số lượng TCTD yếu kém để có số lượng các TCTD phù hợp, có quy mô và uy tín, hoạt động lành mạnh, bảo đảm tính thanh khoản.
Nhìn chung, việc cơ cấu lại hệ thống các TCTD và xử lý nợ xấu đã đạt được một số kết quả nhất định trong việc đẩy lùi nguy cơ đổ vỡ hệ thống, từng bước xử lý có hiệu quả nợ xấu.
Một là, chất lượng tín dụng được cải thiện. Các giải pháp xử lý nợ xấu được triển khai đồng bộ cùng với các biện pháp kiểm soát, phòng ngừa nợ xấu mới phát sinh đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng tín dụng và giảm tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng.
Kết quả trong giai đoạn 5 năm từ 2012 - 2017, các NHTM đã rất tích cực trong việc xử lý và kiềm chế nợ xấu mới phát sinh, góp phần đưa tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống về mức dưới 3% theo đúng mục tiêu đề ra.
Hai là, hiệu quả kinh doanh của hệ thống ngân hàng sau khi giảm sút trong năm 2015 đã được cải thiện và tăng khá trong năm 2016 (ROA: 0,48%; ROE: 5,94%) và tiếp tục tăng trong năm 2017 (ROA: 0,8%; ROE: 10,2%) do tín dụng tăng trưởng ổn định và được Chính phủ cho phép mở rộng đến 21% trong năm 2017 (Hình 2).
Ba là, thanh khoản của thị trường trong giai đoạn 2012-2017 đã được cải thiện tốt hơn so với giai đoạn trước, giúp lưu thông tiền tệ được thông suốt, đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống.
Bốn là, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) của toàn hệ thống các TCTD về cơ bản cao hơn mức yêu cầu tối thiểu 8% được quy định tại Luật Các TCTD năm 2010 và mức 9% theo quy định tại Thông tư số 36/ 2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 quy định về tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng. Sau một thời gian các NHTM liên tiếp mở rộng quy mô, tỷ lệ CAR có xu hướng giảm từ năm 2012 và đến cuối năm 2017 vẫn chưa được cải thiện nhiều (Hình 3).
Trong giai đoạn này, mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng có dấu hiệu giảm dần. Sau 4 năm thực hiện quyết liệt Đề án 254, số lượng TCTD tính đến hết năm 2015 giảm 20 tổ chức so với năm 2011. Một số ngân hàng yếu kém được nhận diện và triển khai các biện pháp cơ cấu lại, hoặc sáp nhập với NHTM cổ phần khác để tăng quy mô hoạt động.
Trước những diễn biến này, chỉ số HHI (tổng tài sản và huy động) tiếp tục giảm kể từ năm 2011, sau đó tăng nhẹ trong giai đoạn 2015-2017 (Bảng 1). Đây là một trong những hiệu ứng của quá trình M&A trong giai đoạn 2011-2014 đã dẫn đến việc hình thành một số ngân hàng có quy mô lớn hơn về tổng tài sản cũng như thị phần huy động và cho vay trong giai đoạn sau đó.
Như vậy, có thể thấy trong giai đoạn 2006-2017, cạnh tranh và ổn định hệ thống ngân hàng có mối quan hệ đan xen lẫn nhau. Cạnh tranh vừa là động lực để các ngân hàng Việt Nam nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động, vừa là tác nhân gây ảnh hưởng đến sự ổn định hệ thống ngân hàng. Do đó, cần phải có các giải pháp đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa cạnh tranh và ổn định hệ thống ngân hàng.
Một số giải pháp, đề xuất
Hoạt động quản lý, giám sát ngân hàng của NHNN hướng tới mục tiêu tăng cường sự ổn định và bảo đảm an toàn của hệ thống các TCTD. Tuy nhiên, hoạt động này cũng có thể ảnh hưởng đến kết quả cạnh tranh giữa các ngân hàng. Để lợi ích của cạnh tranh có thể lan tỏa trên diện rộng, NHNN cần xây dựng và thực thi một khuôn khổ quản lý, giám sát ngân hàng phù hợp và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo sân chơi bình đẳng cho tất cả các ngân hàng.
Bên cạnh nhóm giải pháp về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, trong giai đoạn 2020 - 2025, NHNN nên hướng đến việc triển khai chính sách an toàn vĩ mô phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn của Việt Nam nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu rủi ro hệ thống, thúc đẩy ổn định tài chính. Một số công cụ và giải pháp được đề xuất như sau:
Thứ nhất, rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định về bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng; bảo đảm các ngân hàng thương mại cơ bản có mức vốn cũng như chất lượng vốn tự có cao hơn.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, giám sát trên cơ sở triển khai các công cụ, phương pháp giám sát rủi ro hệ thống mới gắn liền với đẩy mạnh áp dụng các công cụ an toàn vĩ mô (ví dụ bộ đệm vốn ngược chu kỳ, giới hạn tỷ lệ cho vay so với giá trị, giới hạn tỷ lệ cho vay so với thu nhập, giới hạn tỷ lệ nợ so với thu nhập...).
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện hệ thống cảnh báo sớm nhằm phát hiện, đánh giá rủi ro hệ thống; phát triển ứng dụng của hệ thống cảnh báo sớm trong việc điều hành chính sách an toàn vĩ mô (ví dụ kích hoạt công cụ an toàn vĩ mô như bộ đệm vốn ngược chu kỳ trên cơ sở phân tích chu kỳ tài chính và chu kỳ kinh doanh).
Thứ tư, nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện quy định về ngân hàng ngầm nhằm ngăn ngừa rủi ro hệ thống tích tụ, hướng đến áp dụng các quy định quản lý, giám sát tương đồng cho khu vực ngân hàng chính thức và khu vực ngân hàng ngầm.
Thứ năm, xây dựng và hoàn thiện các quy định về quản lý và giám sát các D-SIB, trong đó bổ sung các quy định yêu cầu cao hơn về vốn và thanh khoản đối với các D-SIB; tăng cường thanh tra, giám sát chặt chẽ hơn với D-SIB, tập trung nhiều hơn vào rủi ro tài chính - vĩ mô bên cạnh những rủi ro đặc trưng cụ thể của từng ngân hàng, cũng như nhấn mạnh đến quản trị, khẩu vị rủi ro, chiến lược, mô hình kinh doanh và kiểm soát nội bộ; yêu cầu các D-SIB định kỳ thực hiện kiểm định sức chịu đựng.