Theo đó, chủ đầu tư thực hiện dự án đầu tư bảo vệ môi trường được vay vốn ưu đãi theo quy định tại khoản 1 Điều 42 Nghị định số 19/2015/NĐ-CP. Tổng mức dư nợ cho vay đối với một chủ đầu tư không được vượt quá 15% vốn điều lệ thực có của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam tại thời điểm cho vay, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn ủy thác, ủy quyền của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Vốn vay được sử dụng để đầu tư các hạng mục, công việc của dự án vay vốn, trong đó ưu tiên sử dụng vốn vay đầu tư các hạng mục xây lắp, thiết bị, công nghệ.
Theo dự thảo, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam căn cứ vào giá trị của tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh đã được định giá để xác định số tiền cho vay. Số tiền cho vay tối đa bằng 70% giá trị tài sản thế chấp, cầm cố và tài sản bảo lãnh đã được xác định và ghi trên hợp đồng tín dụng dự án đầu tư bảo vệ môi trường. Trường hợp chủ đầu tư đảm bảo tiền vay bằng bảo lãnh ngân hàng thì mức cho vay tối đa bằng 100% giá trị bảo lãnh.
Thời hạn cho vay được xác định trên cơ sở khả năng thu hồi vốn, phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của chủ đầu tư, nhưng tối đa không quá 10 năm và không vượt quá thời gian hoạt động của doanh nghiệp. Thời gian ân hạn cho một dự án tối đa là 2 năm.
Dự thảo nêu rõ, lãi suất do Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam quy định nhưng không vượt quá 50% mức lãi suất tín dụng đầu tư của Nhà nước do cơ quan có thẩm quyền công bố tại thời điểm cho vay. Đối với một dự án, lãi suất vay vốn được xác định tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng đầu tư bảo vệ môi trường và cố định trong suốt thời gian vay. Lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn ghi trong hợp đồng tín dụng đầu tư bảo vệ môi trường, được tính trên số nợ gốc và lãi chậm trả.
Theo dự thảo, sau khi nhận đầy đủ hồ sơ của chủ đầu tư theo quy định, chậm nhất không quá 30 ngày làm việc, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam có trách nhiệm kiểm tra và thực hiện giải ngân vốn vay cho chủ đầu tư. Mỗi lần nhận vốn vay, chủ đầu tư phải ký khế ước nhận nợ và cam kết trả nợ. Khế ước chỉ có 1 bản gốc duy nhất lưu tại Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam.
Dự án đầu tư có vốn nước ngoài hoặc gói thầu tổ chức đấu thầu quốc tế mà trong thỏa thuận đã ký giữa nhà tài trợ, đồng tài trợ với Chính phủ Việt Nam quy định về việc giải ngân vốn thanh toán riêng thì thực hiện theo quy định trong thỏa thuận đã ký.